Khi giải quyết ly hôn có nhiều vấn đề tranh chấp phát sinh giữa vợ và chồng. Trong đó một vấn đề được các cặp vợ chồng rất quan tâm là nợ nần phát sinh trong thời ký hôn nhân.

1. Căn cứ xác định khoản nợ trong thời kỳ hôn nhân là nợ chung

Theo ngôn ngữ đời thường chúng ta thường hay nói có khoản nợ với người này hay người kia, tức chúng ta phải trả cho họ một khoản tiền, có thể bao gồm tiền gốc và tiền lãi. Tuy nhiên tại các văn bản pháp luật sẽ thường sử dụng từ ngữ nghĩa vụ để nói tới một khoản nợ nào đó, mà cụ thể ở đây là nghĩa vụ trả tiền.

Căn cứ theo quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì các nghĩa vụ sau đây là nghĩa vụ chung của vợ chồng:

- Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập: tức là những giao dịch mà cả hai vợ chồng là một bên của giao dịch.

Ví dụ: Hợp đồng tín dụng vay tiền ngân hàng có bên đứng vay là hai vợ chồng thì nghĩa vụ trả tiền cho ngân hàng là nghĩa vụ chung của vợ chồng. Tức nợ ngân hàng là nợ chung của vợ chồng.

- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm.

- Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình: đây là trường hợp giao dịch chỉ do vợ hoặc chồng thực hiện, nhưng vì mục đích của giao dịch là để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vẫn có thể coi là nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Nhu cầu thiết yếu ở đây thường là những nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, ở, mặc, học tập, khám chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt khác không thể thiếu cho cuộc sống mỗi người, mỗi gia đình.

Ví dụ: Người vợ ký giấy vay tiền bà A số tiền 5.000.000 đồng để đóng học phí cho con. Trong trường hợp này dù người chồng không ký giấy vay tiền và/hoặc không biết người vợ vay tiền bà A nhưng nghĩa vụ trả tiền cho bà A vẫn là nghĩa vụ chung của vợ chồng.

- Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

- Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình.

- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường.

- Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

Cần lưu ý nếu vợ hoặc chồng thực hiện ủy quyền cho bên còn lại đúng quy định pháp luật, thì những nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người nhận ủy quyền thực hiện cũng được coi là nghĩa vụ chung vợ chồng.

2. Nguyên tắc giải quyết nợ chung của vợ chồng

Tương tự như đối với tài sản chung, vợ và chồng có nghĩa vụ ngang nhau đối với các khoản nợ chung. Nội dung trên được quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Điều 27. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng

1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.

2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.

Khi ly hôn vợ chồng có trách nhiệm liên đới, tức là có trách nhiệm cùng nhau trả nợ cho bên thứ ba. Về nguyên tắc nếu có yêu cầu giải quyết nợ chung và các bên (gồm vợ chồng và chủ nợ) không thỏa thuận được thì nghĩa vụ thanh toán khoản nợ sẽ được chia đôi, mỗi bên vợ/chồng có nghĩa vụ trả một nửa số nợ.

Kể cả khi hai bên đã ly hôn nhưng chưa giải quyết nghĩa vụ chung của vợ chồng thì căn cứ khoản 1 Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, chỉ ngoại trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba đã có thỏa thuận khác về việc thực hiện nghĩa vụ trên.