Khi khởi kiện cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức tới Tòa án, người khởi kiện phải cung cấp địa chỉ của chủ thể này. Dựa trên địa chỉ này để có cơ sở xác định thẩm quyền của Tòa án. Vậy địa chỉ của người bị kiện được quy định như thế nào?

1. Địa chỉ của người bị kiện tại thởi điểm nộp đơn khởi kiện

(i) Đối với người bị kiện là cá nhân thì địa chỉ có thể là nơi cư trú hoặc nơi làm việc của cá nhân này.

Để xác định nơi cư trú của cá nhân, ta dựa trên quy định tại khoản 1, 2 Điều 40 Bộ luật Dân sự 2015:

Điều 40. Nơi cư trú của cá nhân

1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống.

2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó đang sinh sống. […]

Cùng với Điều 11 và khoản 1 Điều 19 Luật Cư trú 2020:

Điều 11. Nơi cư trú của công dân

1. Nơi cư trú của công dân bao gồm nơi thường trú, nơi tạm trú.

2. Trường hợp không xác định được nơi thường trú, nơi tạm trú thì nơi cư trú của công dân là nơi ở hiện tại được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật này.

Điều 19. Nơi cư trú của người không có nơi thường trú, nơi tạm trú

1. Nơi cư trú của người không có cả nơi thường trú và nơi tạm trú do không đủ điều kiện đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú là nơi ở hiện tại của người đó; trường hợp không có địa điểm chỗ ở cụ thể thì nơi ở hiện tại được xác định là đơn vị hành chính cấp xã nơi người đó đang thực tế sinh sống, Người không có nơi thường trú, nơi tạm trú phải khai báo thông tin về cư trú với cơ quan đăng ký cư trú tại nơi ở hiện tại. […]

Như vậy nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống, tức là nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú. Trong trường hợp không xác định nơi thường trú, tạm trú thì nơi cư trú lúc này là nơi ở hiện tại của cá nhân này.

(ii) Đối với người bị kiện là cơ quan, tổ chức thì địa chỉ là nơi đặt trụ sở.

Nếu tổ chức bị kiện là doanh nghiệp, theo quy định tại Điều 42 Luật Doanh nghiệp 2020 về trụ sở chính:

Điều 42. Trụ sở chính của doanh nghiệp

Trụ sở chính của doanh nghiệp đặt trên lãnh thổ Việt Nam, là địa chỉ liên lạc của doanh nghiệp và được xác định theo địa giới đơn vị hành chính; có số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có).

Địa chỉ trụ sở sẽ được ghi nhận tại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Người khởi kiện có thể tra cứu địa chỉ trụ sở doanh nghiệp tại trang web Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp https://dangkykinhdoanh.gov.vn:

 

 
 

 

 

Tại mục tìm kiếm có thể nhập tên doanh nghiệp để tìm kiếm thông tin về doanh nghiệp, trong đó có địa chỉ trụ sở chính.

(iii) Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở cuối cùng của người bị kiện là địa chỉ người bị kiện đã từng cư trú, làm việc hoặc có trụ sở mà người khởi kiện biết được gần nhất tính đến thời điểm khởi kiện và được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh.

Điểm cần lưu ý trong trường hợp này là địa chỉ được cung cấp phải có xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc có tài liệu, chứng cứ chứng minh. Trong trường hợp cần có xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thì dựa trên quy định tại điểm a khoản 3 Điều 13 Nghị định 62/2021/NĐ-CP, người khởi kiện có thể đề nghị Tòa án xác nhận thông tin cư trú của cá nhân tại Cơ sở dữ liệu về cư trú.

(iv) Ngoài ra nếu người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

Về việc ghi đầy đủ và đúng địa chỉ theo những nội dung đã phân tích ở trên, có một số trường hợp đặc biệt được quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP như sau:

- Nếu người bị kiện là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện thường trú hoặc tạm trú hoặc đang sinh sống theo quy định của Luật cư trú (nội dung tại mục i).

- Nếu người bị kiện là người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam thì nơi cư trú của họ được xác định theo quy định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.

- Nếu người bị kiện là người nước ngoài, người Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài thì nơi cư trú của họ được xác định căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện cung cấp hoặc theo tài liệu, chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền cấp, xác nhận.

- Nếu người bị kiện là cơ quan, tổ chức có quốc tịch Việt Nam thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được xác định là nơi cơ quan, tổ chức đó có trụ sở chính hoặc chi nhánh theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo quy định của pháp luật;

Trường hợp cơ quan, tổ chức có quốc tịch nước ngoài thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được xác định căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện cung cấp hoặc theo tài liệu, chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền cấp, xác nhận.

2. Cung cấp địa chỉ sau khi thụ lý vụ án

Nếu sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tổng đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn không còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì căn cứ khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP giải quyết như sau:

- Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tổng đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

- Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi có trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức theo hướng dẫn tại điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị quyết này thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ trụ sở”. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi trụ sở mà không công bố công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

- Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.